Thích Thiện Hoa
1.
Người đời ai cũng có bổn phận:
Người
ta sanh ra trên hoàn vũ này, ai cũng có bổn phận. Nói một
cách tổng quát, thì đã có cái danh, tất phải có cái phận.
Con kiến, con ong, có cái phận của kiến, của ong; mặt trăng,
mặt trời có cái phận của mặt trăng, mặt trời. Dù nhỏ
dù lớn, mọi vật mọi người đều có cái phận riêng của
mình. Những điều cần phải làm, đối với cái phận ấy,
chính là bổn phận.
Danh
càng lớn, thì phận càng nhiều; phận càng nhiều thì bổn
phận càng nặng. Hễ có thêm một cái danh là có thêm bổn
phận. Càng nhiều danh lại càng nhiều bổn phận...Người
có bổn phận của người; nhưng khi người + làm quan, tất
nhiên ngoài bổn phận người, có thêm bổn phận làm quan,
(bổn phận người + bổn phận quan). Và nếu người làm quan
ấy lại làm quan đầu tỉnh, (người + quan + đầu đỉnh)
thì tất nhiên ngoài hai bổn phận trên, còn thêm bổn phận
cai trị cả tỉnh nữa (bổn phận người + bổn phận quan
+ bổn phận cai trị cả tỉnh). Nếu muốn có nhiều danh, mà
lại muốn trút bớt bổn phận, thì là gian lận, lừa bịp.
Và khi ấy, cái danh ấy chỉ là hư danh. Và khi danh đã hư,
thì mọi viẹc đều hư cả. Cho nên người xưa đức Khổng
Tử nêu lên thuyết "Chính danh" để chỉnh đón xã hội là
vì thế.
2.
Người Phật tử tại gia lại có nhiều bổn phận hơn ai cả:
Dựa
vào lý luận trên mà suy diễn, chúng ta thấy bổn phận của
người Phật tử tại gia thật là nặng nề. Cái danh của
chúng ta gồm có đến năm chữ: Người + Phật tử + tại gia.
Như thế, tất nhiên chúng ta có những bổn phận của người
+ bổn phận của Phật tử +bổn phận tại gia. Ðó là chưa
kể người Phật tử tại gia ấy còn có những cái danh khác
như: Công chức, Giáo sư, Tỉnh trưởng v.v...Nhưng để cho
vấn đề này khỏi đi vào chi tiết quá; dưới đây chúng
ta chỉ nói đến bổn phận người Phật tử tại gia mà thôi.
Nhưng nếu muốn vấn đề được đặt một cách sáng sủa,
giản dị, và sát ssề hơn nữa, chúng tôi đề nghị nên bỏ
bớt chữ người nữa. Nghĩa là chúng ta sẽ không nói đến
bổn phận của người ở đây; bổn phận ấy mọi người,
vì đã là người đều biết cả rồi (trong mọi sách luân
lý, công dân đều có nói đến).
Như
thế dưới đây, chúng tôi chỉ xin đề cập đến "bổn phận
của Phật tử tại gia" mà thôi.
B.
Chánh Ðề
Bổn
phận của Phật tử tại gia là những gì?
Phật
là bậc toàn trí, toàn năng, toàn đức, đã dứt sạch ngã
chấp, pháp chấp tất cả việc lành gì cũng được, nên công
đức được đầy đủ và Phật đã biết rõ các phép đều
tuân theo luật nhân quả, nên bao giờ cũng chỉ biết gieo nhân
lành, làm việc lành.
Phật
tử , muốn được làm con Phật , muốn theo dấu chân Phật
, muốn xứng đáng với danh từ Phật tử , tất pahỉ làm
tròn bổn phận của Phật tử nghĩa là nghe những lời Phật
đã dạy, làm theo những
việc Phật đã làm, đi theo con đường
Phật đã đi.
Phật
tử , đáng lẽ phải làm y như thế đó. Nhưng bởi vì chúng
ta là Phật tử tại gia, nên chưa có thể hoàn toàn theo đúng
như Phật. Hai chữ tại gia ràng buộc chúng ta trong những bổn
phận mà chúng ta phải làm tròn.
Do
đó, Phật tử tại gia, có những bổn phận như sau:
Bổn
phận đối với tự thân
Bổn
phận đối với gia đình, quyến thuộc
Bổn
phận đối với người ngoài gia đình.
I.
Bổn Phận Ðối Với Tự Thân
Tu
tâm dươngc tánh Ngoài bổn phận làm người cho xứng với
danh nghĩa con người, cho tròn nhân cách, Phật tử còn luôn
luôn cố gắng trau dồi đức hạnh, tu tâm dưỡng tánh, để
cho thân tâm được an lạc, thanh tịnh, hầu hưởng được
hạnh phúc trong hiện tại và bước lên đường giải thoát
trong tương lai.
Mỗi
Phật tử phải luôn luôn cố gắng vượt lên khỏi kiếp người,
vượt ra ngoài lục đạo. Chúng ta từ vô thỉ đến nay, vẫn
sống say chết ngủ trong trường giả danh mộng huyền, luân
hồi đã nhiều đời nhiều kiếp mà chúng sanh cũng hoàn lại
chúng sanh.
Ngày nay, chúng ta may nhờ phúc báo đời trước,
được làm học trò Phật , mắt được trông vào quyển kinh,
tai được nghe Phật pháp, cũng như đêm tối sẵn có đèn,
trong bể khổ gặp thuyền tế độ. Nếu chúng ta không gắng
sức tu tập, dứt bỏ những thói quen mê lầm phiền não, để
cho tâm tánh chúng ta được tiến hóa dần đến chỗ hoàn
toàn viên mãn, thì sao cho khỏi phụ duyên lành đời trước
của chúng ta và phụ công ơn đức Thích Ca , đấng Từ phụ
đã hiện thân thuyết pháp, chỉ bày cho chúng ta những phương
pháp tu hành để thoát khỏi sanh tử luân hồi. Phương pháp
tu hành mà một Phật tử tại gia phần giải quyết tâm thực
hiện là: giữ Ngũ Giới, tu Thập thiện, sám trừ các phiền
não, chuyên tâm niệm Phật , phát tâm từ bi tế độ. Có như
thế thì ct mới có thể vượt ra khỏi kiếp người, bước
thêm một bước dài trên con đường giải thoát.
II.
Bổn Phận Ðối Với Gia Ðình
Phật
tử tại gia còn có gia đình quyến thuộc, nên còn nhiều bổn
phận không thể làm ngơ được. Phật tử có cha mẹ, vợ
hay chồng, con cái, bà con thân thích, người giúp công hay kẻ
mướn việc...Ðối với mỗi hạng người ấy, Phật tử đều
có mỗi cách đối xử, mỗi bổn phận.
Theo
kinh Thiện Sanh, thì Phật tử tại gia có những bp như sau đối
với những người trong nhà:
1.
Bồn phận con đối với cha mẹ, phải đủ năm điều:
a)
Làm con phải hếùt lòng hiếu kính đối với cha mẹ, tùy
theo mùa tiết hàn, nhiệt, mà chăn nom mền chiếu, ấm áp hợp
thời, để cha mẹ được nghỉ ngơi yên giấc.
b)
Làm con mỗi ngày phải dậy sớm, để phân công việc cho người
làm lụng đúng giờ, và lo sắp đặt miếng ăn thức uống
cho cha mẹ được vừa miệng đẹp lòng.
c)
Làm con phải gánh vác tất cả công việc nhọc nhằn, thay
thé cho cha mẹ, để cha mẹ được thư thới, vui vẻ trong
tuổi già.
d)
Làm con phải nhớ nghĩ luôn luôn đền ơn sanh thành, dưỡng
dục, để lo báo đáp cho kịp trong lúc cha mẹ còn sanh tiền.
e)
Làm con, khi cha mẹ đau ốm, phải hết lòng săn sóc, hầu hạ
bên giường, không nài khó nhọc và ân cần rước thầy xem
mạch, thuốc thang điều trị không sợ hao tốn.
2.
Bổn phận cha mẹ đối với con, cũng phải đủ 5 điều:
a)
Phải dạy dỗ con dứt trừ tất cả điều hung ác, làm tất
cả điều lành, để trở nên người có đức hạnh.
b)
Phải khuyên răn con cái, nên gần gũi người trí tuệ.
c)
Phải nhắc nhở con cái, cần mẫn học hành.
d)
Phải liệu định cưới gả con cái cho kịp lúc xuân thời.
e)
Phải cho con cái bàn tính tham dự việc nhà, cùng góp công
trong sự xây dựng hạnh phúc gia đình.
3.
Bổn phận vợ đối với chồng, phải đủ 5 điều:
a)
Phải kính yêu và hòa thuận với chồng, khi chồng ra đi hay
trở về, phải đưa đón niềm nở.
b)
Khi chồng đi vắng, ở nhà phải lo quét dọn, may vá, cơm nước
sẵn sàng, đợi chồng về mới cùng ăn uống.
c)
Phải giữ gìn tiết hạnh, không được ngoại tình.
d)
Lúc chồng nóng giận nặng lời, không nên bừng mặt cãi lẫy,
làm mất hòa thuận và có khi phải rã rời giềng môí. Lại
khi chồng có lời khuyên bảo chánh đáng, vợ phải vâng theo;
kho có món ngon vật quí, không nên dùng riêng cho mình.
e)
Mỗi đêm, phải xem xét cửa nẻo, trước
sau đóng gài kín đáo, cắt đặt cẩn thận, soi rọi khắp
cả trong nhà, rồi mới đi ngủ sau.
4.
Bổn phận chồng đối với vợ, cũng phải đủ 5 điều:
a)
Khi vợ ra đi hay lúc trở về, phải đưa đón niềm nở.
b)
Phải ăn uống cho có giờ khắc, và đừng quá khó khăn, để
vợ khỏi phải làm phiền lòng nấu nướng không chừng, và
lo lắng cực nhọc.
c)
Phải tùy phận giàu nghèo của mình, để vợ mua sắm áo quần
và đồ trang sức vừa theo sở thích, không hẹp lòng làm vợ
buồn phiền.
d)
Phải tin cậy phó thác cho vợ các công việc nhà.
e)
Không được sanh tâm tà vạy, sớm mận tối đào, làm cho
vợ ghen tuông sầu não.
5.
Bổn phận đối với bà con thân thích, phải có đủ 5 điều:
a)
Khi thấy bà con có người làm việc chẳng lành, thì phải
thượng xót khuyên can, răn nhắc.
b)
Trong bà con thân thích, có người nào bị đau ốm, tai nạn,
tật nguyền, thì phải hết lòng giúp đỡ, hoặc cơm cháo
thuốc men, hoặc áo quần, tiền bạc v.v..
c)
Những việc kín đáo, rieng tư của người này, mình có biết
cũng không nên tiết lộ cho người khác biết.
d)
Bà con thân thích, phải năng tới lui thăm viếng, nhắc nhở
nhau tránh dữ làm lành. Ðoi khi có ý kiến chẳng đồng, cũng
nên hoan hỷ, đừng cố chấp giận hờn nhau.
e)
Trong thân bằng quyến thuộc, có kẻ giàu người nghèo, lẽ
cố nhiên người dư ăn dư để, phải giúp đỡ cho kẻ thiếu
hụt.
6.
Bổn phận chủ đối với người giúp việc trong nhà, phải
có đủ 5 điều:
a)
Chủ nhà trước khi sai khiến người giúp việc làm gì, trước
phải biết họ, đói, no, ấm, lạnh thế nào để họ có đủ
sức khỏe và vui lòng làm lụng.
b)
Lúc nào n giúp việc làm gì, trước phải biết họ, đói,
no, ấm, lạnh thế nào để họ có đủ sức khỏe và vui lòng
làm lụng.
b)
Lúc nào người giúp việc bị bịnh loạn, phải chăm non thuốc
thang và để cho họ được nghỉ ngơi, để bồi bổ sức
khỏe lại.
c)
Khi họ có phạm lỗi gì, phải xét coi họ cố ý hay vô tình.
Nếu vô ý lầm lỡ, thì nên dung thứ; nếu họ quyết lòng
phá hại, thì phải làm nghiêm trách hẳn hoi, với lời lẽ
thanh nhã, cho họ biết lỗi để chừa.
d)
Khi họ tiện tặc tích góp được số tiền riêng, không nên
tìm cách thâu đoạt.
e)
Khi muốn thưởng công lao cho họ, phải giữ mực công bình,
tùy công lao của mỗi người mà phân chia cho cân xứng.
7.
Bổn phận người giúp việc đối với chủ nhà, cũng phải
có đủ 5 điều kiện:
a)
Mỗi buổi sáng phải thức dậy trước chủ nhà, không đợi
kêu.
b)
Phải biết phần việc nào của mỗi nagỳ, cứ y như thường
lệ mà thi hành, không đời chủ sai bảo.
c)
Khi làm việc phải thận trọng đồ dùng của chủ, không làm
vụt chạc, hư hao.
e)
Phải hết lòng kính mến chủ nhà, lúc chủ ra đi, phải ân
cần đưa tiễn, lúc chủ trở về, phải vui mừng tiếp đón.
e)
Không nên chỉ trích, nói xấu chủ với người ngoài.
III.
Bổn Phận Ðối Với Người Ngoài Gia Ðình
Những
người ngoài gia đình, chúng tôi muốn nói ở đây, không phải
những người xa lạ, hay hàng xóm láng giềng, mà chính là
những người có sự liên quan mật thiết với chúng ta, nhưng
không cũng quyến thuộc, không ở chung dưới một mái nhà,
nên tạm gọi là những người ngoài gia đình.
Những
người nầy giữ vai trò quan trọng trong đời sống của chúng
ta, lái chúng ta đi trên con đường hiểu biết đạo đức,
góp một phần lớn lao trong việc xây dựng hạnh phúc cho chúng
ta. Ðó là những vị thầy dạy dỗ và những vị Tăng già
và thiện hữu tri thức.
1.
Bổn phận học trò đối với thầy, phải đủ 5 điều:
a)
Phải kính mến thầy như cha mẹ
b)
Phải vâng lời thầy dạy bảo.
c)
Phải giúp đỡ thầy trong cơn hoạn nạn.
d)
Phải siêng năng học tập cho vui lòng thầy.
e)
Khi thôi học rồi, cũng phải năng tới lui thăm viếng thầy,
để tỏ lòng cảm mến công ơn dạy dỗ và quý trọng tài
đức của Thầy..
2.
Bổn phận thầy đối với trò, cũng phải đủ 5 điều:
a)
Phải cần mẫn dạy dỗ học trò.
b)
Phải cố gắng làm sao cho học trò mình mau tiến bộ hơn học
trò khác, về tài năng cũng như về đức hạnh.
c)
Phải để ý đến những điều cấn yếu làm sao cho học trò
in sâu mãi vào tâm trí.
d)
Phải giảng giải rõ ràng các lý thuyết mắc mỏ và hỏi
lại nhiều lần cho học trò không lầm lạc.
e)
Phải có lòng rộng rãi, mong muốn làm sao cho học trò mình
được trở nên giỏi hơn mình.
3.
Bổn phận Tín đồ đối với chư Tăng và thiện hữu tri thức
phải đủ 5 điều:
a)
Phải hết lòng thành thật đối với chư Tăng và thiện hữu
tri thức.
b)
Phải cung kính và vâng lời dạy bảo của quí vị minh sư
và các thiện hữu.
c)
Phải chăm chỉ nghe lời giảng dạy của các vị Tăng già
đức độ, thẩm xét cho kỹ lưỡng rồi như pháp mà tu hành.
d)
Phải cầu học với chư Tăng và thiện hữu những chỗ bí
yếu về đạo lý mà mình chưa hiểu.
e)
Phải cầu thỉnh các vị minh sư chỉ dạy cho mình những pháp
môn cần yếu, như "tham thiền", "niệm Phật " để ngày đêm
chuyên tâm tu trì, không gián đoạn.
IV.
Cách Xưng Hô Và Một Số Nghi Thức Cần Thiết
Của
Người Phật Tử Tại Gia
Ngoài
những bổn phận nói trên, Phật tử tại gia còn cần phải
biết cách xưng hô khi tiếp xúc với quý vị Tăng già, và
những nghi thức cần thiết khi đến chùa, khi lễ Phật , cầm
kinh v.v...Ðã là Phật tử , thì những điều này, mặc dù
là hình thức, cũng không thể không biết đến.
1
.
Cách chào hỏi và xưng hô với Tăng già:
Phật
tử phải biết cách đối xử, xưng hô với chư Tăng cho phải
phép:
a)
Khi gặp một vị hay nhiều vị Tăng tại chùa hay ngoài đường,
nên chắp tay kính cẩn chào, bằng cách niệm: "Nam mô A Di Ðà
Phật ", với vẻ mặt hoan hỷ với mình. Lối chào ấy biểu
lộ một tình cảm đậm đà, còn hơn lối chào bắt tay của
người Âu Tây. Sở dĩ chào nhau bằng một câu bảo hiệu Phật
, là để nhắc rằng ai cũng có Phật tánh (bản tánh A Di Ðà),
nếu quyết chí tu, rồi cũng đến được cảnh giới Tịnh
độ và cuối cùng sẽ thành Phật.
b)
Về cách xưng hô, Phật tử tại gia không nên kêu chư Tăng
bằng Huynh hay Sư huynh hay Ðạo hữu mà nên kêu bằng thầy,
mặc dù vị ấy là đồng sư.
Những
tiếng Thượng Tọa, Ðại Ðức không nên quá lạm dụng, không
phải đối với vị sư nào cũng gọi là Thượng Tọa hay Ðại
Ðức được cả. Chỉ đối với những vị sư có đạo hạnh,
nhiều niên lập (tuổi Ðạo), và đối với mình chưa quen
thân lắm, mới nên dùng chữ Thượng Tọa hay Ðại Ðức.
Ðối với các vị Bổn sư, các vị Tăng già mình thường
quen biết, dùng chữ "Thầy" là phải cách và đầy đủ ý
nghĩa nhất. Thầy là có ý tôn kính như cha (quân, sư, phụ)
và là người thường dạy bảo mình trên đường tu tập.
Thầy có vẻ vừa tôn kính, vừa thân mật, vừa chân thật,
chứ không như chữ Thượng Tọa hay Ðại Ðức có vẻ xã
giao kiểu cách, đãi bôi, bề ngoài. Hiện nay đang lan tràn
cái dịch, dùng danh từ Thượng Tọa và Ðại Ðức. Chúng
ta nên thận trọng mỗi khi dùng những chữ ấy, để khỏi
bị người ngạo đạo hiểu lầm là quí vị Tăng già muốn
được gọi như thế, vì còn thích chức tước, hư danh.
c)
Trước khi vào Chánh điện lễ Phật , phải rửa mặt, súc
miệng, rửa tay cho sạch sẽ, để giấy gút ngoài thềm cửa,
đừng mang vào Ðiện mà tổn Phước. Khi tiến tới Ðiện
thì đi ở phía trái, khi ra thì đi về phía hữu, theo cách
"hữu nhiễu" của nhà Phật (đi quanh theo chiều hữu, ab hay
bảy vòng, để tỏ lòng kính mến Phật ).
Khi
đi ra, phải chú ý coi chừng dưới chân, để tránh khỏi sự
dẫm đạp trùng kiến. Giữ được như thế, được phước
đức hơn là phóng sanh mà không biết giữ.
d)
Khi tụng kinh, phải chắp hai tay ngang ngực, mười ngón tay
từng cặp bằng nhau, không so le, hai lòng bàn tay khít lại,
đừng để trống giữa. Chân đứng ngang bằng, hình chữ "bát",
mắt ngó xuống, chăm chỉ tụng cho các câu rành mạch, không
nên ỷ giọng hay, tụng to tiếng động chúng. Phải tụng cho
ăn nhịp, theo tiếng mõ và tiếng tụng của ông Duy na (dẫn
đầu).
Khi
lễ Phật , năm vóc phải sát đất, nghĩa là đầu, hai tay,
hai gối, phải sát chiếu, hết lòng thành kính mà lễ. Khi
lạy phải xích qua một bên, vì phía sau còn có chùa thờ Hộ
pháp hay tượng Phật và nhương chỗ cho ngôi Trụ trì. Khi
lễ Phật xong, đi ra phải bước lui, mắt ngó tượng Phật
, đừng quay lưng lại.
e)
Trước khi cầm kinh hay tụng phải rửa tay. Cầm kinh sách đem
đi đâu, nên ôm trên ngực, đừng cặp bên nách như quyển
sách thường, vì kính kinh như kính Phật. Nếu cầm kinh mà
muốn chào người, thì phải để kinh trên bàn trước khi chào.
Gặp trường hợp không có chỗ để kinh, thì ôm vào ngực
mà chào: "A Di Ðà Phật " là được. Kiêng nhất là cầm quyển
kinh mà xa chào người.
Trên
đây là kể sơ lược một số oai nghi tế hạnh mà Phật tử
tại gia phải giữ gìn. Oai nghi của người xuất gia thì nhiều
lắm, nhưng không phải phạm vi của bài này, nên không nói
đến.
C.
Kết Luận
Khuyên
Phật tử tại gia giữ tròn bổn phận.
Bổn
phận của Phật tử tại gia như vừa trình bày ở trên, tuy
kể ra thì nhiều, nhưng không có gì là cao kỳ khó khăn phức
tạp. Những điều ấy, một người chưa phải là Phật tử
, nhưng có chút đức hạnh, cũng đã hiểu rồi, biết rồi.
Nhưng
điều quan trọng ở đây, không phải là hiểu biết mà là
thực hành, những điều đã hiểu biết ấy. Trong cuộc sống
tầm thường hằng ngày, làm tròn bổn phận có nhiều khi còn
khó hơn là ra trận giết quân thù, hay trèo non lội suối.
Những công việc khó khăn như bất thường này chỉ cần vận
động sự cố gắng và hăng hái trong một khoảng thời gian
nhất định, chứ những bổn phận tầm thường hằng ngày,
muốn làm cho tròn, phải vận dụng sự kiên nhẫn và cố gắng
suốt cả đời. Vì lý do ấy mà tục ngữ ta có câu: " Thứ
nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa".
Vậy
chúng ta không nên xem thường những bổn phận tầm thường
của chúng ta, mà phải luôn luôn cố gắng làm cho tròn. Sự
cố gắng này sẽ đem lại cho chúng ta một phần thưởng chắc
chắn thật là đưa dần chúng ta lên đường giải thoát.
(Theo Thích Thiện Hoa - Thư viện Hoa Sen)